A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Những nội dung mới của Luật khoáng sản

(ĐCSVN) - Luật khoáng sản có 11 chương, 86 điêù. Nội dung các chương cụ thể như sau: Những qui định chung; Chiến lược, qui hoạch khoáng sản; Bảo vệ khoáng sản chưa khai thác; Điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản; Khu vực khoáng sản; Bảo vệ môi trường, sử dụng đất, nước, hạ tầng kỹ thuật trong hoạt động khoáng sản; Thăm dò khoáng sản; Khai thác khoáng sản và khai thác tận thu khoáng sản; Tài chính về khoáng sản và đấu giá quyền khai thác khoáng sản; Trách nhiệm quản lý nhà nước về khoáng sản; Điều khoản thi hành. Luật khoáng sản có hiệu lực từ ngày 01/07/2011.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên- Môi trường Chu Phạm Ngọc Hiển cho biết: Phạm vi điều chỉnh của Luật khoáng sản lần này kế thừa phạm vi điều chỉnh của Luật khoáng sản năm 1996, theo đó chỉ điều chỉnh hoạt động khoáng sản bao gồm hoạt động thăm dò khoáng sản và hoạt động khai thác khoáng sản. Hoạt động phân loại, làm giàu khoáng sản được qui định nằm trong hoạt động khai thác khoáng sản do thường gắn với quá trình khai thác. Hoạt động chế biến khoáng sản sau khai thác (thường gọi là chế biến sâu khoáng sản), hoạt động tiêu thụ, tàng trữ, vận chuyển khoáng sản không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật.
Luật Khoáng sản (sửa đổi) đã bổ sung 48 điều mới hoàn toàn về nội dung và sửa đổi, bổ sung 38 điều của Luật Khoáng sản năm 1996. Những nội dung mới của Luật Khoáng sản thể hiện trên một số nhóm vấn đề chính sau đây:
Về chiến lược quy hoạch khoáng sản: Điểm mới trong Luật là đã bổ sung quy định về Chiến lược khoáng sản (điều 9) nhằm định hướng phát triển ngành công nghiệp khai khoáng cũng như công tác lập quy hoạch khoáng sản nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo trong công tác lập quy hoạch như hiện nay.
Đối với quy hoạch khoáng sản đã bổ sung quy định về Quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản chung cả nước (điều 12); Quy hoạch khai thác, sử dụng từng loại, nhóm khoáng sản làm vật liệu xây dựng cả nước; Quy hoạch khai thác, sử dụng từng loại, nhóm khoáng sản khác cả nước và Quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (điều 13). Quy định rõ căn cứ, nguyên tắc lập quy hoạch; điều chỉnh, công bố quy hoạch. Việc phân loại quy hoạch như trên đã làm rõ nội dung của từng loại quy hoạch, khắc phục tình trạng chồng chéo về nội dung giữa các quy hoạch như hiện nay.
Bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác: Điểm mới của Luật là đã quy định cụ thể trách nhiệm bảo vệ khoáng sản chưa khai thác của tổ chức, cá nhân (điều 17), của Ủy ban nhân dân các cấp (điều 18), của Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng như các Bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan (điều 19). Để tạo cơ sở pháp lý cho các địa phương trong việc chủ động bảo vệ khoáng sản chưa khai thác, điều 20 của Luật quy định “ Nhà nước đảm bảo kinh phí cho công tác bảo vệ khoáng sản chưa khai thác” và được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm.
Điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản: Luật đã khẳng định công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản nhằm làm rõ tiềm năng, triển vọng của tài sản “ khoáng sản” là trách nhiệm của Nhà nước (điều 21). Điểm mới của Luật là đã quy định cụ thể về nội dung điều tra cơ bản về địa chất khoáng sản, các quyền và nghĩa vụ của tổ chức thực hiện điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản (điều 22, điều 23); bổ sung quy định “ xã hội hóa” nguồn vốn thực hiện điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản (điều 24) và quyền của tổ chức tham gia đầu tư cho công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản.
Về quy định khu vực khoáng sản: Đã bổ sung quy định cụ thể về tiêu chí xác định khu vực cấm hoạt động khoáng sản, khu vực tạm thời cấm hoạt động khoáng sản (điều 28), khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia (điều 29) bổ sung quy định về khu vực có khoáng sản phân tán nhỏ lẻ (điều 27) làm cơ sở xác định thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động khoáng sản của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Luật cũng đã quy định rõ điều kiện khu vực hoạt động khoáng sản phải là khu vực có khoáng sản đã được điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khoanh định trong quy hoạch.
Các quy định về hoạt động khoáng sản: Thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực khoáng sản, Luật khoáng sản ( sửa đổi) đã bỏ quy định về khảo sát, chế biến khoáng sản, đồng thời lồng ghép nội dung hoạt động phân loại, là giàu khoáng sản vào hoạt động khai thác khoáng sản. Để lựa chọn khu vực thăm dò khoáng sản, tổ chức, cá nhân chỉ cần có văn bản đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (điều 37);Bổ sung quy định cụ thể về diện tích khu vực thăm dò (điều 38); đề án thăm dò; điều kiện tổ chức hành nghề thăm dò khoáng sản; bỏ quyền kế thừa quyền thăm dò khoáng sản ( đối với cá nhân thăm dò); bổ sung mới các quy định chặt chẽ về điều kiện chuyển nhượng quyền thăm dò khoáng sản.Quy định rõ quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản; bỏ quyền được kế thừa quyền khai thác khoáng sản (đối với cá nhân khai thác); bổ sung quy định về thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản nhằm tăng trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản khi sử dụng tài sản là “khoáng sản” và phục vụ cho công tác quản lý.Bổ sung quy định về khu vực khai thác khoáng sản; đóng cửa mỏ khoáng sản; quy định cụ thể trình độ, năng lực giám đốc điều hành mỏ.
Các quy định về giấy phép hoạt động khoáng sản: Đã bổ sung quy định về lựa chọn nhà đầu tư thăm dò, khai thác khoáng sản; bổ sung quy định về việc cấp giấy phép khai thác khoáng sản chủ yếu thông qua hình thức đấu giá quyền khai thác khoáng sản (ở khu vực đã thăm dò cũng như ở khu vực chưa thăm dò khoáng sản). Trường hợp cấp phép không thông qua đấu giá thì phải xác định rõ khu vực hoạt động khoáng sản và phải được cấp có thẩm quyền cho phép.Đã bổ sung các quy định mới về nguyên tắc và điều kiện cấp giấy phép thăm dò khoáng sản, nguyên tắc và điều kiện cấp giấy phép khai thác khoáng sản nhằm tránh tình trạng tùy tiện trong thẩm định hồ sơ cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản, đồng thời lựa chọn được tổ chức, cá nhân có đủ năng lực, kinh nghiệm khi cấp phép. Việc cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản cho hộ kinh doanh cũng phải đảm bảo các điều kiện do Chính phủ quy định.Đã bổ sung quy định về điều kiện chuyển nhượng quyền thăm dò khoáng sản, quyền khai thác khoáng sản nhằm ngăn chặn tình trạng đầu cơ trong hoạt động khoáng sản. Thời hạn tối đa cho một giấy phép thăm dò khoáng sản cũng đã được được điều chỉnh từ 4 năm lên 8 năm để phù hợp với thực tiễn, nhất là đối với thăm dò khoáng sản kim loại. Thực hiện cải cách hành chính, đồng thời tránh tình trạng tùy tiện khi thực hiện thủ tục hành chính, đã quy định ngay trong Luật nội dung hồ sơ cấp, gia hạn, cho phép trả lại, chuyển nhượng quyền thăm dò khoáng sản, khai thác khoáng sản và khai thác tận thu khoáng sản. Nội dung chi tiết về thủ tục cấp, gia hạn, trả lại v.v... đối với giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản, giấy phép khai thác tận thu khoáng sản giao cho Chính phủ quy định.
Về phân cấp thẩm quyền cấp phép: Để khắc phục những bất cập, hạn chế trong cấp giấy phép thăm dò, giấy phép khai thác trong thời gian qua tại nhiều địa phương, Luật đã quy định việc phân cấp theo hướng giảm bớt thủ tục hành chính, tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương. Theo đó, giữ nguyên thẩm quyền cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn và giấy phép khai thác tận thu khoáng sản của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; bỏ quy định giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp phép khai thác khoáng sản ở những khu vực ngoài quy hoạch khoáng sản của cả nước và ngoài khu vực dự trữ tài nguyên khoáng sản quốc gia. Đồng thời, điều chỉnh quy định theo hướng tăng cường sự quản lý của Trung ương trong việc cấp phép: đối với các diện tích khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ chỉ phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp phép ( thăm dò, khai thác khoáng sản) ở các khu vực đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường khoanh định và công bố. Sự điều chỉnh này nhằm khắc phục những tồn tại trong quản lý hoạt động khoáng sản như ở nhiều nơi trong những năm vừa qua. Việc khoanh định các khu vực khoáng sản cần tiến hành sớm và chặt chẽ, một mặt tăng tính chủ động của các địa phương, mặt khác để quản lý có hiệu quả tài nguyên khoáng sản, nhất là những khoáng sản quý hiếm.
Tài chính về khoáng sản và đấu giá quyền khai thác khoáng sản: Điểm mới mang tính “đột phá” của Luật là sự thay đổi cơ bản cơ chế quản lý khoáng sản thông qua các quy định về tài chính, phù hợp với nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân đối với khoáng sản và quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân của Nhà nước, Luật quy định khoản thu khi Nhà nước cấp quyền khai thác khoáng sản cho các tổ chức, cá nhân được gọi là “ Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản”. Đây chính là một phần lợi ích mà chủ sở hữu được hưởng khi giao quyền khai thác khoáng sản cho tổ chức, cá nhân.
Việc xác định mức thu được căn cứ vào trữ lượng, chất lượng, điều kiện khai thác khoáng sản và do Chính phủ quy định và hướng dẫn cụ thể. Ngoài việc phải nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản còn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính về thuế, phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.
Một điểm mới cơ bản của Luật là về nguyên tắc, việc cấp quyền khai thác khoáng sản phải thực hiện trên cơ sở đấu giá quyền khai thác khoáng sản nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, có một số khu vực khoáng sản, loại khoáng sản khi cấp quyền khai thác không thể thông qua đấu giá, như khoáng sản có tính chiến lược, khoáng sản ở khu vực có sự nhạy cảm về môi trường, về đảm bảo quốc phòng, an ninh, khu vực đã thăm dò trước ngày Luật có hiệu lực v.v...Để giải quyết vấn đề này, Luật đã quy định việc cấp quyền khai thác khoáng sản không thông qua đấu giá được tiến hành ở khu vực khoáng sản do Chính phủ quyết định trên cơ sở các tiêu chí do Chính phủ quy định để xem xét cụ thể.
Khi đấu giá quyền khai thác khoáng sản sẽ thực hiện ở cả khu vực chưa thăm dò khoáng sản và khu vực đã thăm dò khoáng sản. Trường hợp trúng đấu giá quyền khai thác khoáng sản ở khu vực chưa thăm dò khoáng sản thì tổ chức, cá nhân trúng đấu giá khai thác khoáng sản phải thực hiện việc thăm dò khoáng sản. Kết quả thăm dò khoáng sản do Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia thẩm định, phê duyệt để đảm bảo lợi ích quốc gia.
Về quản lý nhà nước về khoáng sản: Đây là nội dung quan trọng liên quan đến quản lý tài sản “ khoáng sản” của Nhà nước và cũng là điểm mới của Luật, theo đó đã quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về khoáng sản của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân các cấp nhằm tăng cường hiệu quả công tác quản lý về khoáng sản ở cấp cơ sở.
Để đảm bảo sự thống nhất trong quản lý nhà nước về khoáng sản, tạo điều kiện chủ động cho Chính phủ trong công tác điều hành, về thẩm quyền lập, trình phê duyệt quy hoạch khoáng sản theo quy định Điều 10 đã không quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ nào mà giao cho Chính phủ quy định, phân công cụ thể các bộ, ngành trong việc lập quy hoạch khoáng sản và hướng dẫn việc lập quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản của địa phương.
Về trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của địa phương và người dân nơi có khoáng sản được khai thác: Nhằm thực thi chính sách bảo đảm hài hòa lợi ích giữa “Nhà nước – Người dân – Doanh nghiệp”, Điều 5 của Luật đã quy định rõ hơn trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản với địa phương nơi có khoáng sản được khai thác như: hỗ trợ kinh phí đầu tư nâng cấp, duy tu, xây dựng hạ tầng kỹ thuật sử dụng trong khai thác khoáng sản và xây dựng công trình phúc lợi; kết hợp khai thác với xây dựng hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ, phục hồi môi trường v.v... Mặt khác, Luật cũng quy định, nếu tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản gây thiệt hại đến hạ tầng kỹ thuật, v.v... thì tùy theo mức độ thiệt hại phải có trách nhiệm sửa chữa, duy tu, xây dựng mới hoặc bồi thường; phải ưu tiên sử dụng lao động là người địa phương vào hoạt động có liên qua v.v...
Điều khoản chuyển tiếp: Ngoài việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản được cấp phép trước ngày Luật có hiệu lực, để đảm bảo bình đẳng giữa các dự án khai thác được cấp theo quy định của Luật và các dự án khai thác khoáng sản được cấp phép trước ngày Luật có hiệu lực (trước tháng 7 năm 2011) khoản 3 Điều 84 quy định đối với các dự án khai thác khoáng sản đã được cấp phép trước ngày Luật có hiệu lực cũng phải thực hiện thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản để đảm bảo quyền của chủ sở hữu Nhà nước./.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Bài viết liên quan

Nội dung đang cập nhật...

Bản đồ địa giới hành chính
Dịch vụ công trực tuyến
Dịch vụ công trực tuyến
Thống kê truy cập
Hôm nay : 118
Hôm qua : 357
Tổng số : 2.412.480,47