A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Luật kinh doanh bảo hiểm: Sửa để phù hợp với WTO và nâng cao yêu cầu quản lý của Nhà nước

Luật kinh doanh bảo hiểm nhằm thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới cũng như phù hợp với các luật liên quan, nâng cao yêu cầu quản lý của Nhà nước. Luật phân loại rõ nghiệp vụ bảo hiểm, về tái bảo hiểm bắt buộc, sửa đổi quy định về hình thức doanh nghiệp, các vấn đề liên quan đến đấu thầu, hợp tác và cạnh tranh trong kinh doanh bảo hiểm.Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2011.Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm với các nội dung cơ bản dưới đây.
Các sửa đổi, bổ sung để thực hiện cam kết của Việt Nam gia nhập WTO: Về cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới:Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành chưa quy định về cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới, tuy nhiên, theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO trong lĩnh vực bảo hiểm thì Việt Nam cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới. Vì vậy, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 6 Luật Kinh doanh bảo hiểm và bổ sung khoản 2 Điều 105 Luật Kinh doanh bảo hiểm việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới theo quy định của Chính phủ.
Về phân loại nghiệp vụ bảo hiểm: Điều 7 Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành đã quy định 2 loại hình bảo hiểm bao gồm 5 nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ và 11 nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Tuy nhiên, thực tế, hoạt động kinh doanh bảo hiểm phát triển rất nhanh và đã có một số nghiệp vụ bảo hiểm mới. Vì vậy, Điều 7 đã bổ sung loại hình, nghiệp vụ bảo hiểm mới phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế, ví dụ bổ sung nghiệp vụ bảo hiểm hưu trí trong nhóm bảo hiểm nhân thọ và hưu trí, bổ sung các nghiệp vụ bảo hiểm thuộc nhóm bảo hiểm sức khỏe.
Về tái bảo hiểm bắt buộc: Điều 9 Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành có quy định trước khi tái bảo hiểm ra nước ngoài doanh nghiệp bảo hiểm phải tái bảo hiểm một phần trách nhiệm cho doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm trong nước. Tuy nhiên, theo BTA và WTO, Việt Nam không được phép quy định tái bảo hiểm bắt buộc. Vì vậy, Điều 9 Luật Kinh doanh bảo hiểm bỏ cơ chế tái bảo hiểm bắt buộc. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn tài chính cho thị trường bảo hiểm Việt Nam khi không còn quy định tái bảo hiểm bắt buộc, cần thiết bổ sung quy định trường hợp tái bảo hiểm ra nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm phải tái bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm nước ngoài đạt hệ số tín nhiệm theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Các sửa đổi, bổ sung để phù hợp với các luật có liên quan: Sửa đổi quy định về hình thức doanh nghiệp:Điều 59 Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành quy định các hình thức doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp nhà nước phải chuyển đổi thành công ty TNHH hoặc công ty cổ phần và doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn nước ngoài được chuyển đổi thành công ty TNHH 02 thành viên trở lên hoặc công ty TNHH một thành viên. Ngoài ra, Hợp tác xã cũng là tổ chức kinh tế, có tư cách pháp nhân, có thể hoạt động kinh doanh bảo hiểm nếu đáp ứng quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm.
Vì vậy, Điều 59 Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định về các loại hình doanh nghiệp bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, tổ chức bảo hiểm tương hỗ và hợp tác xã bảo hiểm.
Về các vấn đề liên quan đến đấu thầu, hợp tác và cạnh tranh: Điều 10 Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành có quy định về hợp tác và cạnh tranh trong kinh doanh bảo hiểm. Các quy định này là phù hợp, tuy nhiên, trong thực tiễn còn phát sinh một số vấn đề dưới đây:
Về đấu thầu trong kinh doanh bảo hiểm: Theo quy định của Luật Đấu thầu năm 2005, các dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% phải đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp. Tuy nhiên, trong thực tế, việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm chưa thực hiện theo nguyên tắc đấu thầu, từ đó đã dẫn tới những biểu hiện thiếu minh bạch trong cạnh tranh.
Về cạnh tranh trong kinh doanh bảo hiểm: Cạnh tranh trong kinh doanh bảo hiểm có một số đặc thù như: mức phí bảo hiểm phải đủ để trích lập dự phòng nghiệp vụ và thu xếp tái bảo hiểm; mức phí, hoa hồng bảo hiểm phải phù hợp với mức trách nhiệm, điều kiện, phạm vi bảo hiểm, đảm bảo thực hiện được các nghĩa vụ đã cam kết theo hợp đồng bảo hiểm và an toàn tài chính cho doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng và thị trường bảo hiểm nói chung...
Về hợp tác trong kinh doanh bảo hiểm: Hợp tác trong kinh doanh bảo hiểm cũng còn một số tồn tại như: các doanh nghiệp bảo hiểm trực thuộc hợp tác với Tập đoàn, Tổng công ty mẹ nhằm khép kín dịch vụ bảo hiểm trong nội bộ ngành; một số doanh nghiệp bảo hiểm hợp tác với cơ quan quản lý nàh nước, chủ đầu tư để chỉ định, ép buộc mua bảo hiểm hoặc can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm.
Vì vậy, Điều 10 Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi theo hướng quy định nguyên tắc về đấu thầu, hợp tác và cạnh tranh trong kinh doanh bảo hiểm.
Các sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao yêu cầu quản lý nhà nước: Về điều kiện cấp phép: Điều 63 Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành đã quy định về các điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Trong thời gian qua, Bộ Tài chính nhận thấy năng lực tài chính và có bằng chứng để chứng minh nguồn tài chính hợp pháp của chủ đầu tư xin cấp giấy phép là yếu tố quan trọng, quyết định sự thành công của doanh nghiệp bảo hiểm, sự ổn định và phát triển của thị trường bảo hiểm. Vì vậy, Điều 63 Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi, bổ sung quy định này.
Về đại lý bảo hiểm: Điểm c, khoản 1 Điều 6 Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành quy định điều kiện hoạt động đại lý bảo hiểm là phải có chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm hoặc Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cấp. Thực tế cho thấy, nhiều đại lý chưa qua đào tạo hoặc chất lượng đào tạo không đảm bảo nhưng vẫn làm đại lý bảo hiểm. Vì vậy, Điều 86 Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định đại lý bảo hiểm phải có chứng chỉ đại lý bảo hiểm do cơ sở đào tạo được Bộ Tài chính chấp thuận cấp.
Về chức năng quản lý nhà nước: Điều 120 Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành đã quy định các nội dung cơ bản quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, tuy nhiên, giám sát là một trong những nội dung trọng yếu trong công tác quản lý lại chưa được đề cập trong Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành. Mặc dù chưa có quy định rõ về giám sát nhưng thực tế, Bộ Tài chính đã và đang thực hiện chức năng giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm, từ khâu chuẩn bị các điều kiện để thành lập doanh nghiệp bảo hiểm, trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm cho đến các khâu như chuyển đổi mô hình (cổ phần hóa, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp bảo hiểm...) cũng như giám sát các hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, thanh tra chuyên ngành hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng là một trong những chức năng quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Luật Thanh tra mới được Quốc hội thông qua cũng quy định về thanh tra chuyên ngành thuộc cơ quan quản lý nhà nước.
Vì vậy, Điều 120 Luật Kinh doanh bảo hiểm bổ sung chức năng giám sát vào một trong những nội dung quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. Đồng thời, Điều 122 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định rõ Cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành kinh doanh bảo hiểm.
Về đảm bảo quyền lợi của người được bảo hiểm: Điều 97 Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành chưa yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm lập quỹ để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm. Trong trường hợp gặp khủng hoảng, khó khăn tài chính hoặc phá sản, thì doanh nghiệp bảo hiểm gặp khó khăn có thể không có khả năng tài chính để trích lập quỹ dự trữ này. Vì vậy, khoản 2 Điều 97 Luật Kinh doanh bảo hiểm bổ sung quy định trích lập Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm.
Sửa đổi các quy định phải được Bộ Tài chính chấp thuận: Điều 69 Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành đã quy định một số thay đổi phải được Bộ Tài chính chấp thuận. Tuy nhiên, Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành chưa quy định việc thay đổi việc thay đổi chức danh “ Chuyên gia tính toán” phải được sự chấp thuận của Bộ Tài chính. Đây là một chức danh rất đặc thù và quan trọng đối với doanh nghiệp bảo hiểm, với các nhiệm vụ chính gồm: tính toán phí bảo hiểm, lập dự phòng nghiệp vụ, đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm..., kịp thời báo cáo Cơ quan quản lý bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm có những nguy cơ, rủi ro về tài chính, giúp Cơ quan quản lý kịp thời áp dụng biện pháp đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và quyền lợi của người tham gia bảo hiểm nói riêng.
Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh lợi mà còn phải đảm bảo an toàn và tính thanh khoản để bồi thường bảo hiểm hoặc trả tiền bảo hiểm kịp thời cho các tổ chức cá nhân tham gia bảo hiểm.
Vì vậy, Điều 69 Luật Kinh doanh bảo hiểm bổ sung quy định quy định khi doanh nghiệp bảo hiểm thay đổi chuyên gia tính toán hoặc đầu tư ra nước ngoài phải được Bộ tài chính chấp thuận./.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Bài viết liên quan

Nội dung đang cập nhật...

Bản đồ địa giới hành chính
Dịch vụ công trực tuyến
Dịch vụ công trực tuyến
Thống kê truy cập
Hôm nay : 214
Hôm qua : 384
Tổng số : 2.412.484,8